Trang

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

NỎ THẦN HAY NIỀM TIN

 Tôi đã thay đổi tiêu đề bài này cho phù hợp với blog của mình. Xin cáo lỗi cùng tác giả Hồng Giang !





Người xưa, Triệu Đà rõ biết chẳng thể dùng tiền chia rẽ khối đoàn kết dân tộc của một nước mà phải dùng nội gián phá vỡ khối đoàn kết từ bên trong. Hay nói cách khác là không thể dùng tiền mua được nỏ thần mà phải trộm cắp nỏ thần. Thêm nữa, Triệu Đà đã gặp may khi đối thủ An Dương Vương quá đỗi tự mãn, dễ dàng sa ngã vào lòng tham, cám dỗ dục vọng và mắc rất nhiều sai lầm khi điều hành, quản lý đất nước qua cách hành xử độc tài, bảo thủ, cực đoan, chuyên quyền,…; nội bộ cộng đồng Âu Lạc dễ bị thao túng, chia rẽ cũng do nơi lòng tham, sự ích kỷ, sự hiểu biết chủ quan, nông cạn,…Có lẽ, Triệu Đà cũng rõ biết “Nếu dùng tiền mua được nỏ thần của An Dương Vương thì hẳn là An Dương Vương đã có rất nhiều súng thần công…

Còn nhớ chuyện hàng ngàn năm về trước. Vua An Dương Vương được Thần Kim Quy trao cho nỏ thần để bảo vệ đất nước. Lúc bấy giờ, Triệu Đà là kẻ muốn xâm chiếm thành Cổ Loa nhưng sau nhiều lần liên tiếp tấn công đều chuốc lấy thất bại ê chề. Do biết An Dương Vương có báu vật trấn quốc - nỏ thần Triệu Đà đã giở thủ đoạn cầu hòa bằng việc đưa con trai Trọng Thủy sang làm con rể An Dương Vương nhằm mưu đồ trộm cắp nỏ thần. Gian kế thành công, Triệu Đà trộm được nỏ thần đã kéo đại quân sang nhấn chìm thành Cổ Loa trong biển lửa. Việc mất nỏ thần, mất nước khiến An Dương Vương phẫn uất chém đầu công chúa Mỵ Nương rồi tuẫn tiết.
Câu nói sau cùng mà vua An Dương Vương nghe thần Kim Quy nói là “Giặc ở sau lưng nhà ngươi đó” để rồi An Dương Vương vung một nhát kiếm cắt lìa đầu công chúa Mỵ Châu. Có thể xem đây là một nhát kiếm oan nghiệt, đầy tội lỗi. Là đỉnh cao thành công của gian kế chia rẽ sự đoàn kết ở đất nước Âu Lạc khiến người cha phải tự tay giết chết người con ruột thịt, máu mủ.
Câu nói Thần Kim Quy từng nói “Giặc ở sau lưng nhà ngươi đó” đáng để cho chúng ta suy ngẫm. Hãy khai quật nấm mồ lịch sử để xem ai đúng, ai sai?
Ở góc nhìn hạn hẹp, bạn sẽ thấy An Dương Vương giết Mỵ Châu là đúng với câu gợi ý của Thần Kim Quy.
Nhưng khi mở rộng vấn đề trên phương diện tổng thể thì bạn sẽ nhận ra An Dương Vương đã sai hoàn toàn, càng làm, càng sai. Và … sự u mê, mù quáng lý trí, tình cảm đã khiến An Dương Vương hiểu sai lời gợi ý của Thần Kim Quy.
Nỏ thần mất, nước mất không do nơi công chúa Mỵ Châu mà do An Dương Vương quá tự cao, tự đại, chủ quan, khinh suất việc phòng bị. Kể từ khi kết thông gia cùng Triệu Đà đã tự mãn, không còn thao lược quân sĩ mà mãi lo đàn ca, hát xướng, ăn chơi, hoang đàng khiến tinh thần đoàn kết quân dân bị đứt gãy. Và… đến khi Triệu Đà đem quân đánh sang, Trọng Thủy làm nội ứng thì thành Cổ Loa mất là lẽ đương nhiên và là việc ngoài tầm của Mỵ Châu.
Lấy chồng thì phải theo chồng, gia quy phong kiến đã vậy thì bảo Mỵ Châu làm sai thì thật rất miễn cưỡng. Thế nên “Giặc ở sau lưng nhà ngươi đó” mà An Dương Vương ra tay sát hại con thì đủ thấy tầm nhìn của An Dương Vương quá ư kém cỏi. Từ đầu đến cuối, lỗi lầm do một tay An Dương Vương gây nên mà lại đi giết chết con thì thật quá thiển cận, ngu muội.
Nhìn lại sau lưng là nhìn lại những việc mình hoặc những người đi trước đã làm để nhận biết những việc gì đúng, những điều gì sai, chưa ổn ngõ hầu ra sức sửa sai hoặc làm tốt hơn chứ không phải nhìn ra phía sau để thấy Mỵ Châu rồi giết. Trên thực tế, công chúa Mỵ Châu không thể đưa nỏ thần cho Trọng Thủy.
Vì sao không có việc Mỵ Châu trao Trọng Thủy nỏ thần?
Vì nỏ thần vốn không có thật. Hay nói đúng hơn là nỏ thần không phải là một hiện vật hữu hình.
Tôi đã dựa vào điều gì để xác thực lại Truyền thuyết nỏ thần An Dương Vương?
Tôi dựa vào sự thật là không thể có sự tồn tại của chiếc nỏ thần vật chất. Đã từ lâu chúng ta chỉ dựa vào “tai nghe, mắt thấy”, dựa vào hiện tượng mà không nhận diện bản chất vấn đề, chúng ta đã lười biếng tư duy nên góc đánh giá vì thế cũng lệch lạc, sai lầm.
Nỏ thần là gì?
Nỏ thần vốn là tinh thần đoàn kết dân tộc của người Âu Lạc xa xưa. Một tinh thần đoàn kết vững chắc, kiên định khiến giặc ngoại xâm hùng mạnh phương bắc không thể đô hộ. Triệu Đà sau nhiều lần xâm chiếm không thành đã đưa Trọng Thủy sang cầu thân nhằm mục đích đánh tan sự cảnh giác của An Dương Vương cùng người dân Âu Lạc. Kết quả là An Dương Vương đã tự rơi vào quỷ kế của Triệu Đà, chỉ vài lời tâng bốc, tán dương đã khiến An Dương Vương trở nên tự mãn, ngủ vùi trên chiến thắng và những cuộc ăn chơi vô độ, thâu đêm đã phá hoại sức khỏe, tinh thần đoàn kết của người Âu Lạc. Đến khi thời cơ chín muồi thì một lần tiến quân Triệu Đà đã đánh tan đoàn quân rệu rã tinh thần chiến đấu của An Dương Vương.
Giặc ở sau lưng nhà ngươi đó - Chính là những việc mà mỗi người đã từng làm chứ không phải đó là thằng hàng xóm hay công chúa Mỵ Nương… gây ra. Bạn đừng hiểu lầm mà hỏng việc.
Nỏ thần An Dương Vương là một bài học lịch sử chứ không chỉ là truyền thuyết. Người xưa đã thi vị hóa câu chuyện khiến người đời nay cứ ngỡ là một truyền thuyết không có thật. Người xưa đã không dám nói thẳng sai lầm của An Dương Vương vì vua bênh đằng vua, quan bênh đằng quan,… sơ sẩy là đầu lìa khỏi cổ.
Nỏ thần vốn không phải là vật thật mà là tinh thần đoàn kết dân tộc chặt chẽ, bền vững. Triệu Đà vốn thâm hiểm, sau nhiều lần tiến đánh thất bại đã nhận biết chẳng thể xâm chiếm Âu Lạc bằng sức mạnh quân sự nên đã đưa Trọng Thủy sang để tạo sự chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ cộng đồng người Âu Lạc.
Người xưa, Triệu Đà rõ biết chẳng thể dùng tiền chia rẽ khối đoàn kết dân tộc của một nước mà phải dùng nội gián phá vỡ khối đoàn kết từ bên trong. Hay nói cách khác là không thể dùng tiền mua được nỏ thần mà phải trộm cắp nỏ thần. Thêm nữa, Triệu Đà đã gặp may khi đối thủ An Dương Vương quá đỗi tự mãn, dễ dàng sa ngã vào lòng tham, cám dỗ dục vọng và mắc rất nhiều sai lầm khi điều hành, quản lý đất nước; nội bộ cộng đồng Âu Lạc dễ bị thao túng, chia rẽ cũng do nơi lòng tham, sự ích kỷ, sự hiểu biết chủ quan, nông cạn,…
Có lẽ, Triệu Đà cũng rõ biết “Nếu dùng tiền mua được nỏ thần của An Dương Vương thì hẳn là An Dương Vương đã có rất nhiều súng thần công.
Ngày nay, con người thông minh, nhiều hiểu biết hơn xưa nhưng do chủ quan, độc tài mà quên vội những bài học quý cổ xưa.
Mua nỏ thần ư? Được không?
Có lẽ mua được nhưng đó là chiếc nỏ thần bằng vật chất, nó không có là bao giá trị, không có nhiều ý nghĩa cho khối đoàn kết dân tộc, khối đoàn kết toàn đảng, toàn dân. Thậm chí là chính do sự khuất tất của việc mua sắm nỏ thần; sự độc tài, bảo thủ, giả trá,… ở một nhóm người càng khiến cho sự chia rẽ nội bộ, chia chẻ khối đoàn kết dân tộc. Và … đất nước sẽ về đâu khi lòng người ly tán, niềm tin gửi nơi giới lãnh đạo không còn nữa.
Mai này, con người sẽ khe khẽ hát “Niềm tin, niềm tin ơi! Niềm tin ở nơi đâu?”. Tin vào điều gì khi mọi thứ xung quanh đều chứa đựng sự giả dối, lọc lừa,… Vậy thôi! Ích kỷ, sống im lặng, giữ mình. Chuyện không dính đến quyền lợi của ta là chuyện của thiên hạ, không nên dính vào mà thiệt thân,… Khi đó, người đời lại mắng cho “Ngu mà chết”. Khi mọi người dân, mọi thành phần, tầng lớp xã hội đều sống trong mô hình sống lý tưởng - lòng tham, tính thực dụng, sự ích kỷ,… giặc cướp vào nhà, chiếm nước mà vẫn bàng quan, hờ hững,… thì nước nhà còn lại gì? Hãy nhắm mắt lại và dệt một giấc mơ đẹp - Điều đó sẽ không xảy ra và chôn vùi cuộc đời mỗi người trong giấc mơ phù phiếm, vô thường đó.
Và người đời nay nếu mua được nỏ thần thì hẳn nước bạn đã có vô số súng thần công trấn giữ. Mua đồ phế thải về để nấu đồng thì hãy nên mua đồ đồng thì mới được việc. Đừng tự “lừa mình, dối người”, đánh cắp niềm tin của nhau dẫn đến việc “Tiền mất, tật mang”. Đất nước sẽ khó thể phát triển ổn định, bền vững khi lòng người nhiều hoài nghi, sống ích kỷ, tham lam và thực dụng; giới chính khách thì độc tài, bảo thủ và chuyên quyền.
Đất nước sẽ về đâu khi khối đoàn kết toàn dân rời rã, chia chẻ mà không còn sự gắn kết?
Hãy trân trọng người như trân trọng chính mình! Đó là giá trị của mỗi con người và đó là điều mà những người làm công tác quản lý xã hội, lãnh đạo đất nước cần nên gìn giữ, bảo nhậm.

...
Khi mọi thứ vượt giới hạn, rối như tơ vò thì sẽ có một gã khờ nào đó ngồi chết lặng rồi nhận ra 1 sự dối lừa, 2 sự dối lừa, 3 sự dối lừa,… Sau khi lần ra mọi đầu dây, mối nhợ gã khờ tự nói với lòng “Thì ra bản chất của mọi vấn đề nơi xã hội là sự dối lừa, là không đáng tin”. Nhưng gã khờ vốn không là người kín miệng thế là gã đi rêu rao cho mọi người cùng biết; có những điều gã khờ nói đúng khiến mọi người suy ngẫm và nghĩ đến việc tự đổi thay và một tất yếu nơi cuộc sống là xã hội loài người cần đổi thay, không thể sống trong dối lừa, giả trá mãi. Và … nếu những nhà quản lý xã hội, những nhà lãnh đạo đất nước cũng như thế giới không sớm thức thời để đổi thay cách thức quản lý xã hội dựa trên sự dối lừa, giả trá, ngụy tạo giá trị,… thì việc bị đào thải khỏi xã hội là điều hoàn toàn tự nhiên, đúng mực. Khi con người không sống bằng sự thành tín và bị nhận diện thì sẽ không còn người ủng hộ, tôn trọng nữa. Niềm tin không còn thì có tồn tại, có sống thì cũng là đồ thừa, là phế vật đáng bỏ đi của con người.
Nhìn lại lịch sử thăng trầm ở các nước từ lâu xa mỗi người sẽ tự có câu trả lời. Hy Lạp, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư, Italy, Pháp, Đức, Mỹ, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,… tất cả đã từng là những đế chế hùng mạnh và không ít trong số đó đã từng lụn bại, tan rã hoặc đang ngụp lặn trong bối cảnh xã hội hiện tại. Đó là do nơi niềm tin bị đánh cắp. Khi niềm tin không còn thì một tất yếu lịch sử sẽ diễn ra - Sự đổi thay. Và … sự đổi thay cũng có 5 ngõ, 7 đường.
Tại sao ta không thể sống bình thản, an nhiên, tự tại, là chính mình?
Tại sao ta phải dựa giẫm, nương nhờ người khác mà không tự đứng trên đôi chân của mình một cách vững vàng?
Sống vì sự thật mà không cúi mọp trước những dối lừa, giả trá. Như những đứa trẻ sống hồn nhiên, chân thành, đồng điệu cùng những người bạn để cuộc sống có nhiều niềm vui và thảnh thơi. Khối đoàn kết, sự an toàn có nơi sự hiểu biết của nhân loại, của những người bạn chân thành,… chứ không phải ở nơi những cam kết suông, không nhiều giá trị. Hãy nên nhớ rằng nơi lối sống thực dụng có câu “Người không vì mình trời tru, đất diệt”!
Đừng dùng ngôn từ đãi bôi “Nâng lên một tầm cao mới” vì sẽ không ai biết tầm cao mới là ở nơi đâu? Tầm cao mới nó không có thật vì thế nó chỉ có giá trị nơi cửa miệng của một vài người hay nói cách khác nó không có giá trị nào cả và đôi khi nó sẽ khiến người khác dè bĩu, khinh miệt. Hãy thật sống khách quan, có hiểu biết! Nếu không thể lãng tránh, lẩn trốn một vấn đề nào đó thì hãy quả cảm, bình thản đối mặt vấn đề và giải quyết vấn đề một cách đúng mực, dựa vào lẽ phải, sự thật cùng sự hiểu biết tổng thể, khách quan.
Lời thật dễ gây mất lòng người nhưng thuốc đắng mới dã tật.
Lẽ ra, có những chuyện nên tế nhị, nói nhỏ cùng nhau. .. Tin rằng những lời bàn ra, nói vào sẽ khiến các nhà quản lý xét đến những điều tôi đã trình bày và có một sự tìm hiểu đúng mực về những điều tôi đã viết.


Được đăng bởi Hồng Giang vào lúc 05:44

NGAY TRONG QUỐC TANG ĐẠI TƯỚNG



Ngay trong Quốc tang Đại tướng, cả THÙ TRONG lẫn GIẶC NGÒAI đều lộ diện !


THÙ TRONG > 
Thằng này là thằng nào ?
Thuận



GIẶC NGÒAI > 
Vào nhà người ta mà không biết lễ phép !
Cường
                                             

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

LÒNG DÂN



Trong những ngày Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua, tình cảm của mọi người với Đại tướng đã trở thành một Thông điệp nóng bỏng về LÒNG DÂN. Có thể chắc chắn rằng : Có LÒNG DÂN thì có tất cả, mất LÒNG DÂN sẽ là mất hết !

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

THƠ HAIKU

Các bạn LSQL thân mến, nhiều người trong chúng ta thích làm thơ. Ở cái tuổi "xưa nay hiếm" làm cho ra thơ cũng không phải là dễ, nhưng các bạn hãy chịu khó đọc bài này và thử làm xem sao vì cái chủ yếu để làm những bài thơ cực kỳ cô đọng này theo mình là sự từng trải, đúng với lứa tuổi của chúng mình., Lọai thơ này không cần vần. Các bạn hưởng ứng cho vui nhé !

Có thể chưa "thuộc bài"  lắm nhưng  mình làm thử như thế này :

1. THƯONG
Thương em
Vì nhiều năm em đã mỏi mòn
Chờ ta......

2. CÓ CHA
Lẽ ra
Con đã không còn cha
Trở về,  là phần thưởng ..

3. TRIẾT LÝ
Đi nhẹ, nói khẽ, cười tươi
Cầm tinh con gián
Đời cho màu xanh.

4. LỜI CHA DẶN CON GÁI
Lỏng dây : Diều bay
Căng dây : Diều bay mất
Giữ tình cũng vậy.....

5. KỶ NIỆM
Cả một giòng sông trôi
Kỷ niệm thì còn mãi
Bến bờ...

6. TÌNH
Em hái quả mướp vườn nhà
Nhờ chồng gửi cho bạn ốm
Tình ấm lòng bàn tay em


7. CHUYỆN CŨ
Người già, đêm ít ngủ
Chuyện cũ bỗng dâng tràn
Có chuyện chỉ giành cho riêng mình.

8. CÁNH VẠC
Em đi như cánh vạc bay
Một trời giông gió...
Ở nhà ngẩn ngơ : sống, chết !?

9. THÂN PHẬN
Cha mẹ bỏ nhau
Theo mẹ về nhà chồng mới
Con bé biết thân phận mình

10. YÊN NGHỈ
Sống đến "xưa nay hiếm" 
Tìm được miếng đất làm mộ
Những người trẻ chết trận nằm đâu?
 

11. HƯ VÔ
Tan vào hư vô để sống
Nếu không, thất vọng
Đã làm chết ta từ lâu...

MINH HỌA CHO BÀI SỐ 11

12. HUYỀN THỌAI
Huyền thọai là dĩ vãng
Nhưng huyền thọai này
Là hôm nay và mãi mãi !

( Kỷ niệm ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần )


13. ÁNH MẮT
Hình hài có thể thay đổi
Nhưng ánh mắt em  thì không
Dù năm tháng mênh mông, hãy lại  liếc nhìn !


14. CỜ RỦ
Cờ đỏ rủ xuống
Gió lặng, trời khóc
Trái tim Ngừoi còn đập trong ta !

15. TIẾNG CHỔI
Mờ sáng, người quét rác đã làm việc
Những người khác còn ngủ,
Không nghe thấy tiếng chổi khua....

16. CỔ THỤ
Không phải cây nào
Cũng trở thành cổ thụ
Bão giông mới biết: Cây nào.....

17. ĐAU THƯƠNG
Đau thương cho trắng khăn tang
Đau thương này cho  lệ nhuốm hồng
Trong lòng, Người không bao giờ ra đi.

18. LỜi RU
Lời mẹ ru tuổi ấu thơ
Bay vào giấc mộng
Lời ru chẳng bao giờ mất....

19. TÌNH BẠN
Tuổi thơ xa mẹ cha
Bạn bè như anh em ruột thịt
Khi cha mẹ mất hết, tuổi già lại tìm đến nhau....

20. THỜI CƠ
Thời cơ không đến hai lần
Tháng Tám là ngày mười chín
"Phước bất trùng lai"

21.ĐA ĐOAN
Thương lá vàng rơi
Thương đời nghịch cảnh
Đa đoan tìm đến cõi mơ...

22. KHÔNG LỜI
Không nói lời yêu
Vì thời gian không còn
Tình này sẽ là Thiên thu..

23. BÀ NGỌAI
Hai mươi ba năm nằm trong lòng bà ngọai
Con bé mới sinh ra đã ngẩn ngơ
Hôm nay trời  lại mưa, bà đi xin  thức ăn thừa về cho.....

24. TIẾNG CHUÔNG
Ngày ngày, tiếng chuông nhà thờ vẫn ngân vang
Từ hôm nay, có tiếng tro tàn của bạn tôi
Gửi vào tiếng chuông nức nở ....
 
                                      
                          THƠ HAIKU LÀ GÌ ?


           Haiku âm theo lối chữ Kanji ( gốc chữ Nho) là bài cú , có nghĩa là câu nói để trình bày . Chữ "hai" nghĩa là "bài" , trong tiếng Hán Việt có nghĩa "phường tuồng" , chữ "ku" là "cú" hay "câu". Haiku là loại thơ độc đáo , rất thịnh hành của Nhật Bản và là loại thơ ngắn nhất trên thế giới.

Hình thức thơ Haiku

           Một bài thơ theo thể thơ Haiku có ba giòng, giòng đầu và giòng cuối mỗi giòng có năm âm, ôm lấy giòng giữa có bảy âm, có dạng 5-7-5, tổng cộng 17 âm. Tiếng Nhật Bản đa âm, nên mỗi giòng có thể có một, hai, ba chữ hay nhiều hơn. Haiku có biến thể là 5-7-6 hay 5-8-5, lên 18 âm trọn bài. Tiếng Việt đơn âm , nên mỗi chữ là một âm . Không cần vần điệu , nhưng thơ Haiku là sự kết hợp giữa màu sắc, âm thanh, tượng hình có chọn lọc. Thoạt nhìn chỉ là một bài thơ ngắn gọn, nhưng người thơ đã dẫn dắt chúng ta đi qua một khu vườn chữ nghĩa nhỏ hẹp để thênh thang bước vào một cõi tư duy vô cùng bát ngát, một chân trời sáng tạo rộng mở mà người đọc cần có một sự tưởng tượng dồi dào phong phú .
           Ngày nay thơ Haiku thoáng hơn nhiều, không gò bó số chữ trong mỗi câu (tổng cộng trên dưới 17 âm hay chữ), không nhất thiết phải chấm, phết hoặc chấm phết tuỳ tiện (không cần phải ở cuối câu), không cần đặt tựa, không bắt buộc phải có từ của mùa . Chỉ giữ lại hình thức 3 câu , và được đưa vào những từ ngữ chải chuốt, những ẩn dụ của cái hữu hạn và vô hạn ...

Nội dung thơ Haiku

           Về nội dung có luật cơ bản sau : không mô tả cảm xúc, chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm nên thơ Haiku thường chỉ diển tả một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại. Sự kiện này có thể liên kết hai ý nghĩ, hay hai ý tưởng khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến cùng một lúc. 
           Ôi những hạt sương ( sự kiện hiện tại)
           Trân châu từng hạt (ý nghĩ thứ 1)
           Hiện hình cố hương (ý nghĩ thứ 2)


           Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là Mùa và Tính Tương Quan Hai Hình Ảnh.Trong thơ bắt buộc phải có “Kigo” (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa ( không dùng từ xuân, hạ, thu, đông nhưng dùng các từ như hoa anh đào, cành khô, lá vàng ,tuyết trắng ... để chỉ các mùa), và diễn tả một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường).


           Tiếng ve kêu râm ran ( tiếng ve kêu chỉ mùa hạ)
           Như tan vào trong than trong đá
           Ôi, sao tĩnh lặng quá!


           lặng yên qua mấy từng không (hình ảnh vũ trụ)
           lời ve (hình ảnh nhỏ)
           gõ thấu vào lòng đá xanh.


           Ðọc thơ Haiku, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả. Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát được. 


           Cỏ hoang trong đồng ruộng 
           Dẫy xong bỏ tại chỗ 
           Phân bón!


           Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.


           Thế giới này như giọt sương kia 
           Có lẽ là một giọt sương 
           Tuy nhiên, tuy nhiên...


           Thơ có xu hướng gợi ý hay ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Thông thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh : một hình ảnh trừu tượng sống động và linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.


           Trăng soi (hình ảnh trừu tượng)
           Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)
           Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể)


           Nhà thơ không giải thích hay luận về sự liên kết giữa hai hình ảnh nầy, chỉ diễn tả sự vật theo bản chất tự nhiên của nó . Người làm thơ phải tự đặt mình như một đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ , lạ lùng khi tiếp xúc lần đầu tiên với ngoại giới . Một bài thơ Haiku hay là làm sống lại những gì đã chôn sâu trong ký ức và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế nhị, để tự nó khơi lại trí tưởng tượng và mơ ước của người đọc để người đọc tự suy diễn , cảm nhận .


           Chim vân tước bay
           Thở ra sương gió
           Dẫm lướt từng mây 


           Thơ như một bài kệ, sàn lọc từng chữ, không dư mà cũng không thiếu, cốt sao nói đến chính cái đang là - "đương hạ tức thị". Nắm bắt thực tại ngay trong giây phút nẩy mầm, cái đang xảy ra lắm khi chuyên chở cả một vũ trụ thu gọn vào trong thời điểm đó, tiểu thế giới và đại thế giới hòa nhập vào nhau. Một diễn tiến trước mắt khiến ta liên tưởng đến một hiện tượng hay biến cố nào đó trong một kinh nghiệm sống của riêng mình . Kỷ xảo của thơ Haiku là giản lược tối đa chữ nghĩa trong thơ để vận dụng trí tưởng tượng nơi người đọc . Không có người làm thơ và kẻ đọc thơ, cả hai nhập làm một, đồng âm cộng hưởng trong niềm rung cảm với sự liên hệ rất tinh tế và hài hòa của đất trời. 


Thiền tính trong thơ Haiku

           Thơ Thiền Nhật ban đầu cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa, nhưng đến thế kỷ thứ 17 thì thể thơ Haiku ra đời và phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 19 . Người sáng lập loại thơ này là Thiền sư Matsuo Basho. Năm 1680, Matsuo Basho viết bài thơ Con ếch theo lối Haikai - một thể thơ mới (theo thời điểm bấy giờ) mở đường cho thể thơ Haiku. Các bài Haikai của Basho ngắn, gọn, súc tích từ chữ đến ý, cho thấy cái nhìn và thi tứ của nhà thơ. Những người ngưỡng mộ ông tập làm lối thơ này, và thể Haikai trở nên nghiêm trang, chín chắn hơn để dần trở thành thể Haiku, nói lên cái quan niệm và ghi lại sự rung động của nhà thơ.
           Sau Basho, có ba nhà thơ lớn của Haiku lần lượt xuất hiện, hợp cùng Basho thành tứ trụ của Haiku Nhật Bản: Basho , Buson , Issa , Shiki .
           Trong bài thơ sau đây của Basho :

           Fu ru i ke ya               Trong ao xưa
           Ka e ru to bi ko mu     Con ếch nhảy vào
           Mi zu no o to             Tiếng nước khua


           Chỉ vài chữ : một ao nước, một con ếch nhảy , một tiếng nước khua động cũng diễn tả đầy đủ cảnh vật , không dông dài , nhưng luôn luôn đủ ý .Như vậy Haiku là một loại thơ thiền , một cách tập nhìn sự vật đơn giản , thuần khiết . Ðây là một quan hệ biện chứng giữa tĩnh và động như một công án, một tiếng chuông chiêu mộ thức tỉnh ngộ tính con người.

           Thi nhân ghi lại những bức xúc của mình đối với sự biến chuyển trong khoảnh khắc của thiên nhiên đang xảy ra trước mặt. Vạn vật thì thường trôi nổi lững lờ đối với kẻ vô tình mà thật ra đang nói muôn triệu điều trong từng mỗi khắc giây. Người không thấy, người không nghe vì người không chịu nhìn, chịu nghe hay người không biết đấy thôi. 
           Haiku là một nghệ thuật tổng hợp tinh tế tuyệt vời giữa Phật giáo và Lão Giáo trong thế giới Thiền thi, giữa cụ thể và trừu tượng, giữa ẩn dụ và phân tích, giữa thiên nhiên vũ trụ và nội tâm con người . Vạn vật và vũ trụ đều có nguồn gốc từ Đạo, theo sự sinh hóa vô thường và kiếp người cũng chỉ là phù sinh hư ảo . Điều nói ra được thì hữu hạn, mà ý lại vô hạn . Ðiều mà thơ muốn mọi người lãnh hội chẳng phải là điều có thể nói được mà là những điều mà thơ chưa nói ra . Cái tiểu vương quốc của những con chữ gò bó chải chuốt bỗng vươn mình ảo hóa trở thành một vũ trụ siêu hình .Trong thơ Haiku có sự dung hợp giữa Thiền và Thơ, vì thơ biểu lộ tình cảm và thơ có thể tải đạo . Thơ Haiku đi từ một sự vật cụ thể thật nhỏ nhoi tầm thường để dẫn dắt người đọc đi vào cõi mênh mông bát ngát không hình tượng , như một thiền sư đã nói : "Gom góp tất cả lời nói để hoàn thành một câu, vò cả đại thiên thế giới thành một hạt bụi" . Nhà thơ William Blake cũng có nói : “Cả vũ trụ trong một hạt cát (a world in a grain of sand)”.
           "Từ trong hạt bụi ngu ngơ ấy 
           Mưa nắng vô thường sây sát nhau ." 

Ðể cuối cùng người thơ đốn ngộ được : 
           "Từ trong hạt cát hằng sa đó
           Vũ trụ Chân Như sáng nhiệm mầu ."


Mùa trong thơ Haiku

           Phần lớn thơ Haiku của các thi sĩ Nhật Bản nói về bốn mùa xuân, hạ, thu, đông , tuy không nêu ra hẳn tên mùa trong năm. Họ thường dùng những chữ liên quan đến mùa xuân, như “tan tuyết,” lúc “hoa mận nở, hoa đào nở,” hoặc đến lúc “ngỗng trời quay về.” Về mùa thu, họ hay tả “đêm thanh, trời vằng vặc đầy sao,” lúc “bóng nai thoáng qua rừng,” hay là “chuồn chuồn bay chập chờn,” khi người ta “gặt lúa.” Mùa hè có “muỗi,” có tiếng “ve ra rả,” hoặc tiếng “quạt,” hay tiếng “suối róc rách.” Mùa đông không tránh được cảnh “tuyết rơi” trong hay ven “rừng thông,” “gấu,” hay là tiếng củi hoặc than nổ tí tách trong “lò sưởi.” Và hình như các tác giả Haiku người Nhật không bao giờ nói đến lũ lụt, động đất, bệnh tật ... những cái không tốt của thiên nhiên.
           Miura Chora diễn tả mùa hạ đang reo trên muôn ngàn nhánh cây, với lá xanh thắm sáng rực trong nắng vàng :
           Vàng phai 
           cùng với ngàn xanh 
           nghe ngày tháng cũ theo quanh nẻo về. 

           Một bài Haiku khác của Yosa Buson ghi lại sự liên tưởng của ông giữa lá non và thác đổ. Hãy tưởng tượng đến vào một buổi trưa nào đó lúc mới đầu hè, xuân đã qua nhưng lá vẫn còn đang trong thời kỳ nẩy nở, trời chưa nóng lắm. Nhìn nụ xanh Buson mường tượng đến nguồn nước đã nuôi nấng cỏ cây, tắm mát con người trong tháng hạ. Ngay lúc đó, sự liên tưởng đến nước khiến ông nghe văng vẳng tiếng thác đổ gần đâu đó. Nước thác vẫn rơi đều nơi chốn ấy tự ngàn xưa nhưng hình như đối với Buson cho đến giây phút này ông mới vừa nghe hoặc nghe tiếng thác rõ hơn. Đây chỉ là một trong nhiều cách diễn dịch: 
           ụ non lá nhú lên mầm
           thác reo
           nghe thoảng xa gần đâu đây.

Mùa hạ thì có tiếng ve kêu như được đá hấp thụ và người đọc cảm thấy không gian xung quanh thật tĩnh lặng:
           Tiếng ve kêu râm ran
           Như tan vào trong than trong đá
           Ôi, sao tĩnh lặng quá!

Mùa thu khi ăn được một quả hồng thì cảm thấy như nghe được tiếng đại hồng chung của chùa Horiu:
           Ta ăn một quả hồng
           Vọng đâu tiếng chuông đồng Hô-riu
           Lòng phấn chấn phiêu diêu!!!


Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku

           Ngoài những đề tài về thiên nhiên, Haiku còn có đề tài về mẹ. Hình ảnh nầy thường thấy ở trong thơ Issa và Basho. Mẹ là thơ. Mẹ và thơ mãi khắn khít nhau như hình với bóng. Hình ảnh mẹ càng cần cù, mộc mạc bao nhiêu lại càng nên thơ bấy nhiêu. Trong ngôn ngữ thi ca của thế giới, dân tộc nào cũng có những vần thơ chứa chan tình mẹ. Mẹ hiển hiện trên đường về, trên từng ngõ hồn sâu kín. Mẹ là chất liệu kết tinh của tất cả những thiên anh hùng ca, những đại sử thi, những trường thiên tình sử và cả trong những vần thơ Haiku đơn sơ, thâm thúy Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku lại càng bát ngát, phiêu diêu hơn bao giờ hết:

Đến đây nào, với tôi
cùng chơi đùa chim sẻ 
không còn mẹ trên đời. 

Issa

Mẹ yêu ơi ! 
mỗi khi nhìn thấy biển 
khi thấy biển khơi.
 

Issa

Tóc mẹ còn đây 
tan trong lệ nóng
sương mùa thu bay.

Issa

Hoa trong thơ Haiku

           Qua bài "Cánh hoa anh đào muôn thuở" Busho đề cập đến vấn đề vô thường:
           Nhiều chuyện
           làm nhớ lại
           Hoa anh đào

Hoa anh đào đối với người Nhật có ý nghĩa đặc biệt, nhìn hoa anh đào khiến người ta chợt nhớ bao mùa hoa anh đào trong quá khứ. Còn nói theo ngôn ngữ nhà Phật, hoa anh đào là biểu tượng của sự vô thường trong cuộc đời.
           Một bài thơ Haiku khác nói lên hình ảnh của một loài hoa mong manh, mang kiếp sống phù du, giữa màn đêm sương khói huyền ảo, âm thầm lặng lẽ hé nở những cánh mỏng lụa là, như đem sức sống cuộn trào vào từng hơi thở của người thưởng ngoạn, phải chăng đó là một niềm hy vọng bí ẩn, khó hiểu của một loài hoa kiều diễm mang tên Nữ Hoàng Đêm . Người thơ hình như đã nhập thân vào loài hoa khêu gợi đó, để từ đó chiêm nghiệm được quá trình nở hoa " sinh sinh hoá hóa" từ bên trong : khởi đầu một cành cây trơ … đến một cái gì nhu nhú dưới phiến lá …. rồi xuất hiện một nụ trắng ngà … từ đó nụ tung cánh bung xòe ra… và cuối cùng là hoa mãn khai toàn vẹn với những cánh xinh xắn nõn nà tỏa hương thơm ngan ngát …
           Nữ Hoàng Đêm mảnh khảnh
           Trong âm thầm hé nụ phô hoa
           Niềm tin yêu huyền bí

Với màu sắc trắng nhợt nhạt biểu tượng cho sự ngây thơ khờ dại, loài hoa đêm lộng lẫy khát khao nầy đang chờ đợi khai hoa nở nhụy…. đâu biết rằng kiếp sống tạm bợ ngắn ngủi đó sẽ đến hồi chấm dứt khi bình minh chợt sáng, chẳng khác gì bóng câu qua cửa sổ, giọt sương hư ảo trên cành … Những thi ảnh trữ tình, những biểu tượng thâm thúy, những tín hiệu bàng hoàng đã thu hút và dẫn dắt tâm tư người đọc vào một thế giới cao siêu để tự suy niệm về kiếp nhân sinh của con người quanh quẩn trong cuộc sống phù trầm đầy oan khiên nghiệp chướng nầy .
           Cánh hoa mềm êm ái
           Thơm ngát, cầm mình giữa bụi gai
           Trước bình minh chịu chết

Nắng đã lên , những giọt sương mai lãng đãng, đang vắt vẻo trên nhành cây đọt lá . Những cánh hoa tàn úa đang rơi rụng . Một loài hoa đã chết và một ngày mới bắt đầu . Những hình ảnh của loài hoa mờ ảo đó , không sôi động mà vẫn lặng lẽ ẩn mật trong tâm cảm và tư duy của người thưởng ngoạn , để rồi đem lại những cảm giác lạ lẫm đột nhiên bỡ ngỡ, bàng hoàng, sững sốt giữa níu kéo và hoài nghi …
" Ta ngỡ mất mà chưa đành đánh mất 
Bởi mùi hương ngự trị cánh hoa tàn ….."

Một bài thơ Haiku, một bông hoa quỳnh nở rồi tàn, một kiếp phù sinh, một giấc mộng hoàng lương… 
" Phù bào khoảnh khắc vòng sinh diệt
Sớm nở đêm tàn tựa kiếp hoa…" 

Cái sân khấu tuồng đời đầy hỷ nộ ái ố, tham sân si đã hạ màn theo những cánh hoa tàn ,để lại ngơ ngẩn , bần thần và luyến tiếc …

( Nguồn : THƠ HAIKU NHẬT BẢN. google )

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

MẬT GẤU CHỮA BỆNH GÌ ?


Trên Blog của Tạ Diệu Huyền bạn ấy có phong đùa cho mình là : Nhà "Mật gấu học" Tất cả chuyện DH kể về tác dụng của mật gấu đều là sự thật được áp dụng chủ yếu trên cơ thể mình và DH . Đó là mật gấu chó , mua của nhà người ta nuôi , pha với rượu,  nồng độ mật gấu khỏang  20% . Dùng để xoa bóp, đắp và uống , đơn vị uống mỗi lần  là thìa cafe.(chứ không phải XỊ ).

Hôm nay đọc trên Blog của  KYGAI  có bài sưu tầm phản bác lại tất cả, làm mình hơi hỏang, sợ có bạn nào bắt chước mà không hỏi đến nơi đến chốn lại mang vạ vào thân nên mình sưu tầm bài này để các bạn đọc thêm cho sáng tỏ.

Trong sách dạy về chất độc có một câu mình nhớ mãi : Trên thế giới này,  không có chất nào độc cả và tất cả đều là chất độc ! Quan trọng là LIỀU LƯỢNG .


MẬT GẤU
- CÔNG DỤNG CỦA MẬT GẤU
- CÁCH DÙNG VÀ CÁCH CHỌN MẬT GẤU

 Mật gấu tên thuốc là HÙNG ĐỞM vị đắng, tính lạnh, xưa là một vị thuốc quý hiếm, nhưng nay được dùng khắp nơi từ bệnh viện cho đến quán rượu. Vậy thực chất mật gấu có thể chữa được bệnh gì và không chữa được bệnh gì? Bài viết sau đây có thể giúp cho quý vị tự biết khi nào ai nên dùng và không nên dùng mật gấu.


Người xưa nói : Nước chảy luôn thì không bẩn, chìa khóa dùng luôn thì không rỉ, người ta khí huyết luôn luôn lưu thông thì khỏe mạnh. Mật gấu là vị thuốc đứng đầu trong các thuốc họat huyết.vì vậy từ xưa mật gấu đã là vị thuốc quý để phòng và chữa rất nhiều loai bệnh tật. Ngày nay, y học hiện đại đã có nhiều công trình nghiên cứu về mật gấu. Chúng ta có thể kể đến một số công dụng đã được kiểm chứng như sau :

1. Nhờ tính thanh nhiệt và sát trùng, mật gấu chữa được các bệnh cấp tính như:  Đau mắt đỏ, viêm kết mạc, viêm khớp cấp, ho cấp tính vv...Khi bị đau mắt đỏ mắt sưng đau ngứa rặm lấy 1cc mật gấu pha với 50cc nước tinh khiết để uống, bên ngòai nhỏ vài lần là khỏi.

2. Bảo vệ các tế bào gan, cải thiện dịch huyết từ gan nên chữa rất hiệu quả các bệnh về gan mật như : Viêm gan, gan nhiễm mỡ, sơ gan, làm tan các kén bệnh trong gan, viêm mật, sỏi mật, lõang mật

3. Làm tan huyết khối, giảm cholessterol , giảm mỡ trong máu nên phòng chống được tận gốc các bệnh ở hệ tuần hòan do tắc mạch máu gây ra như cao huyết áp, tai biến mạch máu não, tắc động mạch chi, thiểu năng tuần hòan não, thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, nhờ vậy lục phủ ngũ tạng đều được máu đến nuôi dưỡng đầy đủ khiến cho cơ thể luôn khỏe mạnh, không béo phì.

4. Tăng cường tiêu hóa, chữa được bệnh đau dạ dày, viêm đại tràng mãn, kiết lỵ lâu ngày không khỏi.

5. Giảm lượng đường trong máu, ổn định bệnh đái tháo đường.

6. Nhờ tác dụng họat huyết nên chửa được các chấn thương, giúp các cơ bị giập nát chóng lành, phụ nữ sau khi đẻ, uống mật gấu máu hôi sẽ ra hết, thể lực nhanh chóng hồi phục, các vết rám trên mặt cũng khỏi rất nhanh.

7. Các bệnh đau nhức như đau thần kinh tọa, đau khớp, đau cơ đông y gọi là tỳ chứng tức là bế tắc, không thông. Mật gấu nhơ tính  năng họat  huyết thông ứ  nên chứa được các chứng này rất thần hiệu.

8. Đau răng : ngậm miếng bông tẩm mật gấu pha đặc vài lần là khỏi

9. Gần đây, Trung quốc dùng mật gấu trị ung thư với liều 11cc một tháng, uống liên tục trong nhiều tháng, khi bệnh đỡ thì uống liều thấp hơn từ 3 cc đến 6cc một tháng cho kết quả tốt, ngăn chặn rõ rệt sự phát triển của tế bào ung thư, tiêu khối u, tăng cường sức đề kháng của cơ thể, kéo dài tuổi và cá biệt có người khỏi bệnh.

Theo NGUYỄN HỮU TÒAN .  thaythuoccuaban . com  10/3/2013